Khủng bố qua điện thoại là hành vi lợi dụng mạng viễn thông để chia sẻ thông tin giả mạo xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân.
Câu hỏi:
Thời gian gần đây, tôi bị “khủng bố” cuộc gọi, tin nhắn đòi nợ từ công ty tài chính dù không có khoản vay nào. Họ bất chấp ngày đêm, dùng nhiều số điện thoại khác nhau, chặn số này lại đổi sang số khác. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của tôi.
Xin luật sư cho biết chế tài đối với các đối tượng này? Tôi nên làm gì để ngăn chặn rắc rối đang gặp phải?
Trả lời:
Dưới góc độ pháp lý, các đối tượng khủng bố người dân qua điện thoại có dấu hiệu của hành vi lợi dụng mạng máy tính, mạng viễn thông để cung cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân.
Theo Điểm g, Khoản 3, Điều 102 Nghị định 15/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử.
Cụ thể, phạt tiền 10 – 20 triệu đồng đối với hành vi cung cấp, trao đổi, truyền đưa hoặc lưu trữ, sử dụng thông tin số nhằm đe dọa, quấy rối, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác.
Ngoài ra, hành vi này còn bị áp dụng biện pháp xử phạt bổ sung là tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính.
(Ảnh minh họa).
Trong trường hợp hành vi gọi điện, nhắn tin nhằm ép buộc cá nhân hoặc tổ chức trả một khoản nợ khống là có dấu hiệu cấu thành tội “Cưỡng đoạt tài sản”.
Căn cứ tại Điều 170 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) quy định: Người nào đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù 1 – 5 năm.
Mức phạt cao nhất cho tội này có thể bị phạt tù lên đến 20 năm. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền 10 – 100 triệu đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Trường hợp làm cho người bị đe dọa hoang mang, sợ sệt phải đưa tiền thì thuộc trường hợp tội phạm đã hoàn thành; trường hợp người bị đe dọa chưa đưa tiền thì thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt theo quy định tại Điều 15 Bộ luật Hình sự 2015. Lúc này, người phạm tội vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội chưa đạt, tùy theo tính chất, mức độ của hành vi và hậu quả gây ra.
Trường hợp người gọi điện, nhắn tin không nằm mục đích cưỡng đoạt tài sản mà nhằm mục đích xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác thì hành vi này cấu thành tội “Làm nhục người khác” theo quy định tại Điều 155 Bộ Luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017).
Còn việc sử dụng mạng viễn thông để làm nhục người khác thì sẽ rơi vào Khoản 2 hoặc Khoản 3 điều luật này, có mức hình phạt tù từ 3 tháng đến 5 năm tùy theo tính chất, mức độ của hành vi và hậu quả gây ra.
Trường hợp gọi điện nhằm vu khống cá nhân, tổ chức có hành vi chiếm đoạt tài sản thì cấu thành tội “Vu khống” theo quy định tại Điều 156 Bộ Luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017), có mức hình phạt tù từ 3 tháng đến 7 năm tùy theo tính chất, mức độ của hành vi vụ khống và hậu quả xảy ra.
Để phòng ngừa khi bị các đối tượng gọi điện, nhắn tin đòi nợ trong khi chúng ta không vay tiền thì cần thực hiện một số biện pháp sau:
Giải thích ngắn gọn về việc không quen hoặc không có trách nhiệm với khoản nợ mà các đối tượng đề cập và hỏi rõ thông tin đơn vị đòi nợ, nhắc nợ để nắm thông tin (nên ghi âm cuộc gọi, lưu tin nhắn để làm bằng chứng).
Sử dụng tính năng có sẵn trên điện thoại để chặn các cuộc gọi, tin nhắn làm phiền của các đối tượng đòi nợ. Đối với các trang Facebook cá nhân có thể khóa các bình luận của người lạ.
Nếu tình trạng bị làm phiền kéo dài, thậm chí đến mức bị “khủng bố” điện thoại, người dân có thể trình báo đến cơ quan công an nơi gần nhất để có biện pháp xử lý kịp thời.
Tuyệt đối không cung cấp các thông tin của bản thân cho các đối tượng gọi điện đòi nợ như: thông tin về giấy tờ tùy thân, quan hệ gia đình, đồng nghiệp, bạn bè, nơi làm việc, sinh sống…
Luật sư Hoàng Ngọc – Trưởng Văn phòng Luật sư Nhiệt tâm và Cộng sự.
Anh Nhật